
Dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin trong tiến trình Cách mạng Tháng Mười
Vấn đề dân tộc chiếm vị trí rất quan trọng trong lý luận và thực tiễn lãnh đạo cách mạng vô sản của V.I. Lê-nin. Người dành sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề dân tộc trước hết bắt nguồn từ thực tiễn của nước Nga và thế giới, đó là: 1- Sự áp bức dân tộc bằng bạo lực của dân tộc Đại Nga đối với các “dị tộc” đang rất phổ biến ở nước Nga Sa hoàng; 2- Trong hai thập niên đầu thế kỷ XX, những cuộc tranh luận về vấn đề dân tộc trong phong trào dân chủ - xã hội ở Nga và châu Âu diễn ra gay gắt; 3- Chủ nghĩa thực dân, đế quốc đã và đang thực hiện chủ nghĩa dân tộc tư sản, chính sách xâm chiếm thuộc địa, áp bức, nô dịch, gây hằn thù dân tộc trên thế giới.
Trong bối cảnh đó, từ rất lâu trước Cách mạng Tháng Mười, V.I. Lê-nin đã dành nhiều tâm huyết để nghiên cứu vấn đề dân tộc ở cả nước Nga cũng như ở các nước và dân tộc thuộc địa có liên quan mật thiết đến cuộc đấu tranh lâu dài, phức tạp của Đảng Bôn-sê-vích chống chủ nghĩa cơ hội và các thế lực thực dân, đế quốc trong vấn đề này. Đứng trên lập trường của giai cấp vô sản, tinh thần của chủ nghĩa quốc tế vô sản, V.I. Lê-nin đã vận dụng và phát triển tư tưởng mác-xít về giai cấp - dân tộc, đặc biệt bám sát quan điểm lịch sử - cụ thể và quan điểm thực tiễn khi luận chứng, luận giải và đề xuất chính sách giải quyết vấn đề dân tộc ở nước Nga nói riêng, trên thế giới nói chung. Về tổng thể, chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin nhằm bảo vệ, củng cố quan điểm của Đảng Bôn-sê-vích, của chủ nghĩa quốc tế vô sản; phản bác các quan điểm, chính sách của giai cấp tư sản, của các trào lưu cơ hội chủ nghĩa ở Nga và trên thế giới về vấn đề dân tộc; đặc biệt nhằm giáo dục đảng viên của Đảng Bôn-sê-vích và giác ngộ quần chúng nhân dân Nga, để từ đó họ tin tưởng và tự giác đi theo đường lối đúng đắn của Đảng. Những mục tiêu này thể hiện rất rõ trong nhiều tác phẩm của V.I. Lê-nin, như: “Về cương lĩnh dân tộc của Đảng Công nhân Dân chủ - Xã hội Nga” (năm 1913), “Về quyền dân tộc tự quyết” (năm 1914), “Vấn đề hòa bình” (năm 1915), “Cách mạng xã hội chủ nghĩa và quyền dân tộc tự quyết” (năm 1916), “Báo cáo về hòa bình” (năm 1917), “Tuyên ngôn về quyền lợi của nhân dân lao động và bị bóc lột” (năm 1918), “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” (năm 1920),... Theo đó, chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin bao hàm ba nội dung chính sau:

Một là, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng: Vấn đề này được V.I. Lê-nin đặt ra trong một quốc gia đa dân tộc, cũng như giữa các quốc gia - dân tộc trên thế giới. V.I. Lê-nin đã luận chứng sắc sảo và thuyết phục cho những luận điểm sau: “toàn bộ lịch sử của tư bản là một lịch sử đầy những sự tàn bạo và cướp đoạt, đầy máu và bùn nhơ”; “Lối lừa bịp nhân dân, mà giai cấp tư sản thực hành rộng rãi nhất trong cuộc chiến tranh này, là lấy tư tưởng “giải phóng dân tộc” để ngụy trang cho những mục đích cướp bóc của nó”(2); “đối với giai cấp tư sản thì yêu sách về quyền bình đẳng dân tộc trên thực tế thường là sự tuyên truyền cho tính bản vị dân tộc và chủ nghĩa sô-vanh”(3). Người kết luận: Chính sách dân tộc của giai cấp tư sản thực chất là đặc quyền đặc lợi(4); là áp bức, bóc lột, nô dịch(5); là chia rẽ dân tộc, chia rẽ giai cấp vô sản(6); do đó, “khả năng chung sống hòa bình và bình đẳng giữa các dân tộc dưới chế độ tư bản chủ nghĩa” chỉ là ảo tưởng(7); và Người khẳng định: “Ngày nay chỉ có giai cấp vô sản mới bảo vệ quyền tự do thực sự của các dân tộc và sự thống nhất của công nhân thuộc mọi dân tộc”(

. “Nhưng muốn cho cách mạng vô sản thắng lợi, thì phải giáo dục lâu dài cho công nhân tinh thần bình đẳng và hữu nghị dân tộc đầy đủ nhất”(9). V.I. Lê-nin khẳng định: Chỉ có chế độ Xô viết là chế độ thật sự bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc(10); thực hiện quyền bình đẳng dân tộc là để loại trừ mọi sự hiềm nghi, mọi xu hướng, biệt lập, mọi sự nghi kỵ, mọi sự thù hằn nhỏ nhặt nhất giữa các dân tộc(11); quyền bình đẳng dân tộc phải được bảo đảm bằng pháp luật và gắn với việc bảo vệ vô điều kiện các quyền lợi của mọi dân tộc ít người(12). Tóm lại, bình đẳng dân tộc phải được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực, nhưng không phải là bình quân chủ nghĩa, hơn thế cần có sự ưu tiên đối với các dân tộc kém phát triển hơn. V.I. Lê-nin chỉ rõ, chỉ như vậy mới tạo được cơ sở thực hiện đoàn kết dân tộc, đoàn kết giai cấp vô sản trong từng nước và trên thế giới.

Hai là, các dân tộc được quyền tự quyết. V.I. Lê-nin xác định, đây là quyền tự quyết về chính trị; quyền phân lập của dân tộc đó khỏi tập thể dân tộc khác; quyền thành lập quốc gia - dân tộc độc lập; quyền dân tộc tự quyết hoàn toàn trái ngược tư tưởng ly khai và chủ nghĩa biệt lập. “Do kinh nghiệm hàng ngày của mình, quần chúng nhân dân biết rất rõ tầm quan trọng của những quan hệ địa lý và kinh tế, những lợi thế của một thị trường rộng lớn và của một quốc gia rộng lớn nên họ chỉ nghĩ đến phân lập khi sự áp bức dân tộc và những xung đột dân tộc làm cho cuộc sống chung trở thành tuyệt đối không thể chịu đựng được và làm cho mọi thứ quan hệ kinh tế bị trở ngại”(13). V.I. Lê-nin chỉ rõ, “quyền tự quyết được thực hiện bằng một cuộc trưng cầu ý kiến của toàn thể dân cư trong lãnh thổ muốn quyết định vận mệnh của mình”(14). Luận điểm này có nghĩa là quyền dân tộc tự quyết không thể được quyết định bởi một thế lực cầm quyền hay một phe nhóm nào đó, một khi lợi ích và mưu đồ của những thế lực này không phản ánh lợi ích và ý nguyện của đại đa số nhân dân thuộc quốc gia hay dân tộc đó. Trong quan hệ quốc tế, một quốc gia - dân tộc có quyền tự quyết đường hướng đối ngoại của mình, song đường hướng đó nhất thiết không được phương hại đến lợi ích quốc gia chính đáng của quốc gia - dân tộc khác.

Ba là, liên hợp công nhân tất cả các dân tộc. Đây là tư tưởng, nội dung quan trọng trong chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin, phản ánh bản chất, chính sách quốc tế của Quốc tế cộng sản, tinh thần của chủ nghĩa quốc tế vô sản. Trong đó, V.I. Lê-nin khẳng định, nếu giai cấp tư sản thi hành chính sách chia rẽ, gây hằn thù dân tộc, thì “chủ nghĩa quốc tế vô sản tuyệt đối không dung hòa với lập trường đó vì chủ nghĩa quốc tế tuyên truyền không những cho sự gần gũi giữa các dân tộc, mà cho cả sự liên hợp của công nhân thuộc tất cả các dân tộc ở một quốc gia trong những tổ chức thống nhất của giai cấp vô sản”(15). V.I. Lê-nin nhấn mạnh: “điều quan trọng nhất trong chính sách của Quốc tế cộng sản về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa phải là làm cho vô sản và quần chúng lao động của tất cả các dân tộc và tất cả các nước gần gũi nhau để tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng chung nhằm lật đổ bọn địa chủ và giai cấp tư sản. Bởi vì chỉ có sự gần gũi ấy mới bảo đảm việc chiến thắng chủ nghĩa tư bản, nếu không có sự chiến thắng đó thì không thể thủ tiêu được ách áp bức dân dân tộc và tình trạng bất bình đẳng”(16). Từ đó, V.I. Lê-nin phát triển khẩu hiệu Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại! thành Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại! Khẩu hiệu này đã thật sự trở thành ngọn cờ tập hợp lực lượng của giai cấp vô sản và các dân tộc khác nhau ở các nước thuộc địa trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc.
PGS, TS. HÀ MỸ HƯƠNG
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
__________________
(2) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 26, tr.131, 413
(3), (4) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 25, tr. 167, 319
(5) Xem: V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 35, tr. 264; t. 41, tr. 199
(6) Xem: V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd,; t. 25, tr. 99, 166
(7) Xem: V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 41, tr. 199
(

V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 23, tr. 193
(9) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 26, tr. 132
(10) Xem: V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 41, tr. 202
(11) Xem: V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 25, tr. 167
(12) Xem: V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 23, tr. 266, 399; t. 24, tr. 182
(13) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 25, tr. 336
(14) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 35, tr. 145
(15) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 25, tr. 167
(16) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 41, tr. 199